Nhật ký lòng chúa thương xót tập 1, đoạn(11-24)

11 Khi bước xuống xe lửa và thấy mạnh ai đi đường nấy, tôi bàng hoàng hoảng sợ. Tôi sẽ làm gì đây? Phải hướng về ai đây trong khi không quen biết một ai? Thế là tôi cầu với Mẹ Thiên Chúa, “Lạy Mẹ Maria, xin dìu dắt, xin hướng dẫn con.” Lập tức trong lòng tôi nghe được những lời bảo tôi rời bỏ thành phố và đến một làng lân cận, ở đó, tôi sẽ tìm được một chỗ trọ an toàn qua đêm. Tôi đã làm theo, và quả thực mọi sự xảy ra đúng như lời Mẹ Thiên Chúa đã dạy tôi.

12 Sáng sớm hôm sau, tôi trở lại thành phố và ghé vào nhà thờ đầu tiên tôi gặp được [nhà thờ thánh Giacôbê trên đường Grojecka tại Ochota, ngoại ô của thành phố Warsaw]. Ở đó, tôi bắt đầu cầu nguyện để được biết thánh ý Chúa rõ hơn. Các thánh lễ được cử hành liên tiếp. Trong một thánh lễ, tôi đã được nghe lời này: Con hãy đến gặp vị linh mục ấy [cha James Dabrowski, cha sở giáo xứ thánh Giacôbê] và cho ngài biết tất cả; ngài sẽ dạy con phải làm gì tiếp theo. Sau thánh lễ, tôi lên phòng áo (5) và kể cho vị linh mục tất cả những gì đang diễn ra trong linh hồn, và xin ngài cho biết nên dâng mình ở đâu, trong dòng tu nào.

13 Lúc đầu, vị linh mục cảm thấy ngạc nhiên, nhưng ngài dạy tôi hãy mạnh mẽ tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lo liệu cho tương lai cho tôi. Ngài nói, “Bây giờ, cha sẽ gửi con đến trọ với một bà đạo đức [Aldona Lipszycowa 4], và con hãy ở lại đó cho đến khi vào tu viện.” Khi tôi đến gặp người phụ nữ ấy, bà đã tiếp đón tôi rất nồng hậu. Trong thời gian ngụ tại nhà bà, tôi để ý tìm một tu viện, nhưng gõ cửa tu viện nào cũng bị từ chối. Nỗi buồn nặng trĩu tâm hồn, tôi thưa với Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, xin giúp con; xin đừng bỏ con lẻ loi.” Cuối cùng, tôi đã gõ cửa nhà dòng của chúng tôi.5

14 Khi Mẹ Bề Trên, tức là Mẹ Tổng Quyền Michael 6 hiện nay ra gặp tôi, sau một lúc nói chuyện, Mẹ đã bảo tôi đến gặp Chủ Nhân nhà dòng và hỏi xem Người có nhận tôi không. Tôi hiểu ngay sẽ phải xin điều ấy với Chúa Giêsu. Hết sức vui mừng, tôi lên nhà nguyện và xin Chúa Giêsu, “Thưa Chủ Nhân của nhà này, Chúa có nhận con không?” Một nữ tu ở đây đã dạy con phải thưa với Chúa như vậy.” Tức thì tôi nghe được lời này: Cha nhận; con ở trong Trái Tim Cha. Khi tôi ra khỏi nhà nguyện, Mẹ Bề Trên liền hỏi, “A, Chúa đã nhận rồi phải không?” Tôi thưa, “Vâng ạ.” [Mẹ nói,] “Nếu Chúa đã nhận thì tôi cũng nhận.”

15 Tôi đã được nhận vào dòng như thế. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, tôi vẫn phải sống ngoài thế gian hơn một năm nữa với người phụ nữ đạo đức [Aldona Lipszycowa], nhưng không trở về quê nhà.

Hồi đó, tôi phải đương đầu với nhiều khó khăn, nhưng Thiên Chúa đã ban tràn đầy ân sủng của Người cho tôi. Một niềm khao khát Thiên Chúa ngày càng thấm thía trong tôi. Người phụ nữ ấy tuy đạo đức, nhưng không hiểu được hạnh phúc của đời tu trì, nên bà đã theo lòng tốt mà sắp đặt những chương trình cho cuộc đời tôi. Tuy nhiên, tôi cảm thấy tôi có một tâm hồn lớn lao, không gì có thể lấp đầy. Và vì thế, tôi đã dành trọn vẹn niềm khao khát của mình cho Thiên Chúa.

16 Trong thời gian tuần bát nhật trước lễ kính Mình Máu Chúa Kitô [ngày 25 tháng 6 năm 1925], Thiên Chúa đã ban tràn đầy ánh sáng cho linh hồn tôi hiểu biết sâu xa rằng Người là Đấng Toàn Thiện Toàn Mỹ. Tôi đã hiểu Thiên Chúa yêu thương tôi là dường nào. Tình yêu Người dành cho tôi là tình yêu muôn thuở. Lúc ấy là giờ kinh Chiều, với những lời kinh đơn sơ trào dâng tự đáy lòng, tôi đã tuyên khấn với Chúa (6) giữ đức khiết tịnh trọn đời. Từ giây phút ấy, tôi cảm thấy một tình thân nồng nàn với Chúa, Đấng Tình Quân của tôi. Cũng từ lúc ấy, tôi lập một gian phòng nhỏ trong tâm hồn, để ở đó, lúc nào tôi cũng có thể tình tự với Chúa Giêsu.

17 Cuối cùng, cánh cửa tu viện cũng mở ra đón nhận tôi – hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 8 [năm 1925], vào chiều tối, vọng lễ Nữ Vương các thiên thần. Tôi cảm thấy hạnh phúc trào tràn; lúc ấy, dường như tôi đã bước vào cuộc sống thiên đàng. Một lời kinh đã trào dâng từ tâm hồn tôi, một lời kinh tạ ơn.

18 Tuy nhiên, ba tuần lễ sau đó, tôi nhận ra ở đây dành quá ít thời giờ cho việc cầu nguyện, và có nhiều điều rỉ rón với linh hồn tôi nên vào một cộng đoàn tu trì ngặt phép hơn. Ý tưởng này bám riết linh hồn tôi, nhưng thánh ý Chúa không có trong đó. Tuy vậy, ý tưởng ấy, đúng hơn là cơn cám dỗ ấy, ngày càng mãnh liệt đến độ tôi đã quyết định một ngày sẽ thưa với Mẹ Bề Trên về việc ra đi, dứt khoát rời bỏ [tu viện]. Nhưng Thiên Chúa đã an bài các hoàn cảnh khiến tôi không sao gặp được Mẹ Bề Trên Michael. Trước lúc đi ngủ, tôi ghé vào nhà nguyện nhỏ 7 và xin Chúa Giêsu soi sáng trong vấn đề này. Nhưng tôi không nhận được gì trong linh hồn, ngoại trừ một sự day dứt kỳ lạ không sao hiểu nổi. Nhưng bất chấp tất cả, tôi quyết định ngay sau thánh lễ sáng hôm sau sẽ xin gặp Mẹ Bề Trên để thưa về quyết định của tôi.

19 Tôi trở về phòng riêng. Các chị em đã đi ngủ cả – đèn đã tắt hết. Tôi vào phòng, lòng đầy những trằn trọc băn khoăn; không biết phải làm gì bây giờ. Tôi vật mình xuống đất và cất lời tha thiết cầu nguyện để tìm biết thánh ý Chúa. Một sự vắng lặng bao trùm khắp nơi, như thể trong nhà tạm. Tất cả chị em đang ngon giấc như những bánh thánh được xếp trong chén thánh của Chúa Giêsu. Riêng từ gian phòng của tôi, Thiên Chúa có thể nghe thấy tiếng thở than của một linh hồn. Tôi không biết có được cầu nguyện trong phòng sau chín giờ mà không cần phép hay không.8

Một lát sau, ánh sáng tràn ngập gian phòng, và trên bức màn, tôi nhìn thấy Thánh Nhan u sầu của Chúa Giêsu. Trên thánh nhan Người còn đó những thương tích há miệng, với những giọt nước mắt lã chã rớt xuống tấm đệm trên gường tôi. Không hiểu tất cả điều ấy có ý nghĩa gì, tôi liền thưa với Chúa Giêsu, “Lạy Chúa Giêsu, ai đã làm cho Chúa đau đớn dường ấy?” Và Chúa Giêsu nói với tôi, Chính con gây cho Cha nỗi đau đớn này nếu như con rời bỏ tu viện. Đây là nơi Cha đã gọi con, chứ không phải một nơi nào khác; và Cha đã dọn sẵn nhiều ơn thánh cho con. Tôi nài xin Chúa Giêsu tha thứ và lập tức thay đổi quyết định của mình. (7) Hôm sau nhằm ngày xưng tội. Tôi trình bày đầu đuôi những gì đã xảy ra trong linh hồn, và cha giải tội đã cho tôi biết từ đây thánh ý Chúa đã rõ ràng: tôi phải ở lại cộng đoàn này, và thậm chí không được phép nghĩ đến một dòng tu nào khác. Kể từ đó, lúc nào tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện. 20 Sau đó một thời gian ngắn, tôi ngã bệnh [do kiệt sức]. Mẹ Bề Trên quí yêu đã cho tôi cùng hai chị khác đến Skolimow, một nơi không xa Warsaw, để dưỡng sức. Lúc ấy, tôi hỏi Chúa nên cầu nguyện cho ai khác nữa. Chúa Giêsu đáp rằng tối hôm sau Người sẽ tỏ cho tôi biết.

[Đêm hôm sau] tôi được thấy thiên thần Bản Mệnh và ngài ra lệnh cho tôi đi theo. Tôi đang ở trong một nơi mù mịt, đầy những lửa cháy, trong đó có rất nhiều linh hồn đang quằn quại. Các ngài cầu nguyện sốt sắng, nhưng lại không lãnh nhận được gì; chỉ chúng ta mới có thể giúp đỡ họ được. Những ngọn lửa đang thiêu đốt các vị ấy không chạm vào tôi chút nào. Tôi hỏi các linh hồn ấy đau khổ nào làm các ngài cay cực nhất. Họ đồng thanh đáp cực hình kinh khiếp nhất của họ chính là nỗi khao khát Thiên Chúa. Tôi cũng thấy Đức Mẹ xuống thăm các linh hồn trong luyện ngục. Các linh hồn xưng tụng Mẹ là “Sao Biển.” Mẹ mang theo sự dịu mát cho các linh hồn. Tôi muốn nói chuyện với các linh hồn thêm một lúc nữa, nhưng thiên thần Bản Mệnh đã vẫy tôi về. Chúng tôi ra khỏi ngục tù đau đớn ấy. [Tôi nghe một tiếng nói trong lòng] Lòng nhân lành của Cha không muốn điều ấy, nhưng phép công bình đòi phải như vậy. Kể từ đó, tôi kết hợp mật thiết hơn với các linh hồn đau khổ ấy.

21 Cuối thời gian thỉnh viện [ngày 29 tháng 4 năm 1926] – các bề trên [có lẽ là Mẹ Leonard và Mẹ Jane 9] gửi tôi đến tập viện tại Cracow. Một niềm vui mênh mang dạt dào linh hồn tôi. Khi chúng tôi đến tập viện, chị ấy [Henry 10] đang hấp hối. Một vài hôm sau, chị hiện về [linh hồn, sau khi qua đời] và bảo tôi đến gặp Mẹ Giám Tập [Margaret 11] để nhờ Mẹ thỉnh cầu vị giải tội của chị là cha Rospond 12 dâng một thánh lễ và ba lời nguyện tắt để cầu cho chị. Ban đầu tôi đồng ý, nhưng hôm sau, tôi quyết định không đến gặp Mẹ Giám Tập nữa bởi vì không dám chắc điều ấy là thực tế (8) hoặc chỉ là giấc mơ. Và vì thế, tôi không đi. Đêm hôm sau, điều ấy lại xảy ra rõ ràng hơn; tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, đến sáng, tôi lại quyết định không kể cho Mẹ Giám Tập, trừ phi tôi được thấy chị [Henry] trong ngày. Một lần nữa, tôi lại gặp chị tại hành lang. Chị trách tôi đã không đi lập tức, và một sự day dứt đay nghiến linh hồn tôi. Thế là tôi liền đi gặp và kể cho Mẹ Giám Tập tất cả những gì đã xảy ra. Mẹ cho biết sẽ lưu tâm đến chuyện ấy. Tức khắc, niềm bình an dào dạt linh hồn tôi, và đến ngày thứ ba, chị ấy lại đến gặp tôi và nói, “Xin Chúa trả công cho chị.”

22 Ngày tôi được mặc áo [dòng],13 Thiên Chúa đã cho tôi biết sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Tôi thấy rõ tôi đang hiến thân cho điều gì. Tôi đã trải nghiệm một giây phút của nỗi đớn đau ấy. Nhưng lúc đó, Thiên Chúa lại trào đổ cho linh hồn tôi những niềm ủi an vô bờ.

23 Gần hết năm đầu trong thời gian tập viện, bóng tối đã bắt đầu bao phủ linh hồn tôi. Tôi không còn cảm thấy ủi an trong lúc cầu nguyện; và phải hết sức cố gắng để nguyện gẫm; nỗi sợ hãi bắt đầu xâm chiếm tôi. Càng đi sâu vào bản thân, tôi chỉ thấy toàn những khốn nạn thê thảm. Nhưng tôi cũng thấy rõ ràng sự thánh thiện cao vời của Thiên Chúa. Tôi không dám ngước mắt chiêm ngắm Người, nhưng sấp mình tận cát bụi dưới chân Người và khẩn nài lòng thương xót. Linh hồn tôi sống trong tình trạng ấy gần sáu tháng trời. Mẹ Giám Tập quí yêu của chúng tôi [Mary Joseph 14] đã đem đến cho tôi sự can đảm trong những thời gian não nề ấy. Nhưng nỗi đau càng ngày càng tê tái.

Năm thứ hai trong thời gian tập viện của tôi gần đến. Mỗi khi nghĩ đến việc tuyên giữ các lời khấn, linh hồn tôi run giùng. Tôi không hiểu mình đang đọc gì; tôi không thể nguyện gẫm; dường như những kinh nguyện của tôi không làm cho Chúa thỏa lòng. Việc lãnh thụ các nhiệm tích của tôi hình như chỉ xúc phạm nhiều hơn đến Thiên Chúa mà thôi. Nhưng dù vậy, cha giải tội [Theodore 15] vẫn không cho tôi bỏ rước lễ một lần nào. Thiên Chúa đang hoạt động một cách hết sức lạ kỳ trong linh hồn tôi. Tôi không hiểu gì về những điều cha giải tội chỉ dạy. Những chân lý đức tin giản đơn cũng trở nên không sao hiểu nổi đối với tôi. Linh hồn tôi trong cảnh phiền muộn, không tìm đâu được niềm an ủi. (9) Và rồi đến tình trạng tôi yên trí mình đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Tư tưởng khủng khiếp này xuyên thấu linh hồn tôi; giữa cơn thống khổ ấy, linh hồn tôi bắt đầu cảm nghiệm nỗi tang tóc sự chết. Tôi đã muốn chết cho xong mà không sao chết được. Một tư tưởng lởn vởn đến với tôi: cố gắng tập tành các nhân đức để làm gì; tại sao lại phải khổ chế bản thân trong khi mọi sự đều gớm ghiếc trước mặt Chúa? Khi trình bày điều này với Mẹ Giám Tập, tôi đã được trả lời thế này, “Chị yêu quí, chị hãy biết Thiên Chúa đã tuyển chọn chị để sống mật thiết với Người trên thiên đàng. Chị hãy hết lòng tín thác vào Chúa Giêsu.”

Nghĩ đến việc bị Thiên Chúa ruồng bỏ là một cực hình thực sự kinh hoàng đối với những người bị đọa phạt. Tôi chạy đến với các thương tích Chúa Giêsu và lặp đi lặp lại những lời tín thác, nhưng những lời này đối với tôi lại trở thành một cực hình phũ phàng hơn nữa. Tôi đến với Thánh Thể và ngỏ lời với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán rằng, người mẹ không quên được đứa con nhỏ của bà, Chúa cũng không bao giờ quên thụ tạo của Chúa, và cho dù người mẹ có quên con bà đi nữa, thì Ta, Thiên Chúa, cũng không bao giờ quên được thụ tạo của Ta. ‟Lạy Chúa Giêsu, Chúa có nghe lời rên xiết của linh hồn con không? Xin đoái nghe những lời than van đớn đau của đứa con nhỏ của Chúa. Lạy Chúa, con tín thác nơi Chúa bởi vì trời đất có thể qua đi, nhưng lời Chúa phán sẽ vững bền mãi mãi.” Tuy vậy, tôi vẫn không tìm được một giây phút khuây khỏa.

24 Một ngày kia, ngay khi vừa tỉnh giấc và đang đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, tôi bỗng bị đè bẹp dưới nỗi ê chề. Bóng tối tràn ngập linh hồn tôi. Tôi đã ráng sức chiến đấu cho đến trưa. Đến chiều, những nỗi hãi hùng kinh hoàng bắt đầu xâm chiếm tôi; sức lực thân xác tôi cũng bắt đầu lìa bỏ tôi. Tôi đi nhanh về phòng, quì gối trước tượng Chuộc Tội và cất tiếng kêu xin Chúa thương xót. Nhưng Chúa Giêsu không đoái hoài đến những lời than khóc của tôi. Tôi cảm thấy sức lực đã cạn kiệt hoàn toàn. Tôi sấp mình xuống đất, nỗi thất vọng tràn ngập tất cả linh hồn tôi. Tôi đã chịu những cơn cực hình khủng khiếp không khác gì những cực hình hỏa ngục. Tôi phải ở trong thảm trạng ấy suốt ba khắc đồng hồ. Tôi muốn đi gặp mẹ giám tập, nhưng quá rã rời. Tôi muốn hét lên nhưng không sao thành tiếng. May mắn thay, một chị [tập sinh khác, chị Placida Putyra] đi vào phòng của tôi. Thấy tôi trong tình trạng kỳ lạ ấy, chị lập tức cho Mẹ Giám Tập biết. Và Mẹ đến lập tức. Vừa bước vào phòng tôi, Mẹ đã lên tiếng, “Nhân danh đức vâng lời,16 chị hãy trỗi dậy khỏi mặt đất.” Lập tức có một năng lực nâng tôi dậy và tôi đứng sát bên Mẹ Giám Tập. (10) Với những lời dịu dàng, Mẹ bắt đầu giải thích cho tôi đây là một thử thách Chúa gửi đến, Mẹ nói, “Chị hãy hết lòng tín thác; Thiên Chúa lúc nào cũng là Cha chúng ta, kể cả khi Người gửi thử thách đến cho chúng ta.”

Trở về với những nhiệm vụ của mình, tôi như vừa ra khỏi phần mộ, các giác quan tràn ngập những điều linh hồn tôi đã trải nghiệm. Trong giờ kinh Chiều, linh hồn tôi bắt đầu quằn quại giữa tối tăm kinh khủng. Tôi thấy mình ở dưới quyền lực của Thiên Chúa Công Thẳng, còn tôi là đối tượng cơn nghĩa nộ của Người. Trong những giờ phút kinh hoàng ấy, tôi đã thưa lên cùng Thiên Chúa, “Lạy Chúa Giêsu, trong Phúc Âm Chúa đã tự ví như một người mẹ rất dịu hiền,17 con tín thác vào Lời Chúa, vì Chúa là Chân Lý và là Sự Sống. Lạy Chúa Giêsu, dù thế nào đi nữa, con vẫn tín thác nơi Chúa, bất chấp mọi cảm giác nội tâm chống lại niềm cậy trông. Xin hãy thực hiện những gì Chúa muốn về con; con sẽ không bao giờ bỏ Chúa, vì Chúa là nguồn mạch sức sống của con.” Chỉ những ai đã từng trải qua những giờ phút tương tự mới có thể hiểu được nỗi khốn cực ấy của linh hồn khủng khiếp như thế nào.